1/27/15
Bé gái Philippines khiến Giáo hoàng xúc động bỏ diễn văn chuẩn bị sẵn
Câu
hỏi xúc động của một bé gái Philippines hôm 18/1 về việc vì sao Chúa
lại để nhiều bé gái bị ép làm gái bán dâm đã khiến giáo hoàng Francis
xúc động, từ bỏ bài diễn văn chuẩn bị sẵn để kêu gọi thế giới cần nâng
cao hơn nữa lòng trắc ẩn.
Giáo hoàng Francis ôm bé gái Palomar khóc nức nở sau khi đặt câu hỏi lay động lòng người (Ảnh:
AFP
)
Glyzelle Palomar, 12 tuổi, từng là trẻ em vô gia cư trước khi được một
tổ chức từ thiện của nhà thờ đón về nuôi, đã đưa ra câu hỏi gây xúc động
nêu trên trong một buổi lễ diễn ra tại một trường đại học Công giáo ở
Manila, dưới sự chủ trì của Giáo hoàng.
“Rất nhiều trẻ em bị bố mẹ từ bỏ. Nhiều trẻ em bị dính líu đến ma túy và
mại dâm”, Palomar nói với Giáo hoàng Francis khi đứng trên sân khấu
cùng một bé trai 14 tuổi khác, người cũng từng là trẻ vô gia cư. “Tại
sao Chúa lại để những điều đó xảy ra với chúng con? Trẻ em không có lỗi
gì cả”.
Sau câu hỏi này cô bé bật khóc và liên tục lau nước mắt, khiến người
đứng đầu của tòa thánh Vatican phải ôm chặt cô bé vào trong vài giây.
Sau đó Giáo hoàng Francis đã từ bỏ hầu hết bài diễn văn bằng tiếng Anh
chuẩn bị sẵn của mình, để phát biểu bằng tiếng Tây Ban Nha với một thông
điệp khẩn khoản và lay động lòng người.
“Cô bé là người duy nhất đã đưa ra một câu hỏi mà hiện không có câu trả
lời và cô bé thậm chí không thể biểu hiện nó bằng lời nói mà chỉ bằng
nước mắt”, Giáo hoàng nói với đám đông tham dự sự kiện. “Vấn đề cốt lõi
trong câu hỏi của con…hầu như không có câu trả lời”.
Giáo hoàng Francis, hiện đang ở Philippines trong chuyến thăm kéo dài 5
ngày, kêu gọi những người có mặt trước hết cần học khóc với những người
bị đẩy ra lề xã hội, những người chịu đau khổ. Giáo hoàng cho rằng lòng
trắc ẩn hình thức, vốn dẫn tới việc chỉ ban phát những của bố thí, được
thấy ở nhiều nơi trên thế giới là không đủ.
“Nếu Chúa chỉ có lòng trắc ẩn kiểu vậy, người có lẽ chỉ đi ngang qua,
chào hỏi 3 người, cho họ thứ gì đó và tiếp tục đi”, Giáo hoàng nói, và
kêu gọi tất cả hãy cho thấy sự quan tâm thực chất, thiết thực dành cho
người nghèo và những người bị đẩy ra rìa xã hội.
“Có những thực tế trong cuộc sống, chúng ta chỉ có thể nhìn thấy trong
những đôi mắt đã được làm trong sáng bằng nước mắt”, Giáo hoàng nỏi, và
hối thúc mọi người “hãy nghĩ, cảm nhận và hành động”, đồng thời đề nghị
đám đông cùng lặp lại những lời này.
Giáo hoàng cũng đề nghị mọi người học theo Thánh Francis, người mà giáo
hoàng chọn lấy pháp danh. “Ngài đã chết với đôi bàn tay trắng, với những
chiếc túi rỗng nhưng với một trái tim đầy ắp yêu thương”.
Thanh Tùng
Theo
AFP

Giáo hoàng Francis ôm bé gái Palomar khóc nức nở sau khi đặt câu hỏi lay động lòng người (Ảnh:
AFP
)
Glyzelle Palomar, 12 tuổi, từng là trẻ em vô gia cư trước khi được một tổ chức từ thiện của nhà thờ đón về nuôi, đã đưa ra câu hỏi gây xúc động nêu trên trong một buổi lễ diễn ra tại một trường đại học Công giáo ở Manila, dưới sự chủ trì của Giáo hoàng.
“Rất nhiều trẻ em bị bố mẹ từ bỏ. Nhiều trẻ em bị dính líu đến ma túy và
mại dâm”, Palomar nói với Giáo hoàng Francis khi đứng trên sân khấu
cùng một bé trai 14 tuổi khác, người cũng từng là trẻ vô gia cư. “Tại
sao Chúa lại để những điều đó xảy ra với chúng con? Trẻ em không có lỗi
gì cả”.
Sau câu hỏi này cô bé bật khóc và liên tục lau nước mắt, khiến người đứng đầu của tòa thánh Vatican phải ôm chặt cô bé vào trong vài giây. Sau đó Giáo hoàng Francis đã từ bỏ hầu hết bài diễn văn bằng tiếng Anh chuẩn bị sẵn của mình, để phát biểu bằng tiếng Tây Ban Nha với một thông điệp khẩn khoản và lay động lòng người.
“Cô bé là người duy nhất đã đưa ra một câu hỏi mà hiện không có câu trả lời và cô bé thậm chí không thể biểu hiện nó bằng lời nói mà chỉ bằng nước mắt”, Giáo hoàng nói với đám đông tham dự sự kiện. “Vấn đề cốt lõi trong câu hỏi của con…hầu như không có câu trả lời”.
Giáo hoàng Francis, hiện đang ở Philippines trong chuyến thăm kéo dài 5
ngày, kêu gọi những người có mặt trước hết cần học khóc với những người
bị đẩy ra lề xã hội, những người chịu đau khổ. Giáo hoàng cho rằng lòng
trắc ẩn hình thức, vốn dẫn tới việc chỉ ban phát những của bố thí, được
thấy ở nhiều nơi trên thế giới là không đủ.
“Nếu Chúa chỉ có lòng trắc ẩn kiểu vậy, người có lẽ chỉ đi ngang qua,
chào hỏi 3 người, cho họ thứ gì đó và tiếp tục đi”, Giáo hoàng nói, và
kêu gọi tất cả hãy cho thấy sự quan tâm thực chất, thiết thực dành cho
người nghèo và những người bị đẩy ra rìa xã hội.
“Có những thực tế trong cuộc sống, chúng ta chỉ có thể nhìn thấy trong
những đôi mắt đã được làm trong sáng bằng nước mắt”, Giáo hoàng nỏi, và
hối thúc mọi người “hãy nghĩ, cảm nhận và hành động”, đồng thời đề nghị
đám đông cùng lặp lại những lời này.
Giáo hoàng cũng đề nghị mọi người học theo Thánh Francis, người mà giáo
hoàng chọn lấy pháp danh. “Ngài đã chết với đôi bàn tay trắng, với những
chiếc túi rỗng nhưng với một trái tim đầy ắp yêu thương”.
Thanh Tùng
Theo
AFP
1/23/15
CHOUX À LA CRÈME
BÁNH SU KEM .
BÁNH SU KEM .
Phần vỏ bánh
120ml nước lạnh
50g bơ
65gbột mì
2 trứng
3 soup đường tí muối
1/2 muỗng cafe bột nở
Phần nhân
200ml sửa
40g đường
2 lòng đỏ
2 soup bột năng
5g bơ
Tí muối
5g bột mì
Cách làm :
- làm sôi đường , bơ, muối xong cho bột vô khuấy . chờ bột hơi nguội cho từng cái trứng vô đánh
- Vân lấy túi bắt bông kem nặn bánh. Nướng 190 độ 30 p
Phần nhân :cho hết hỗn hợp lên bếp nấu cho đến khi đặc lại
Bánh chín để nguội, Vân khoét đích bánh. Cho nhân vào túi bắt bông kem nặn vô thân bánh từ đích bánh .
(Em dựa theo trang Savourydays làm 2 lần hư đủ 2 lần. Vì thiếu bột nở phần vỏ bánh và thiếu bột mì phần nhân bánh.)
Vân Trần
1/21/15
Một chuyện tình đẹp, cảm động thời chinh chiến
Dẫu lìa ngó ý…
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Hương-Thủy
Nhà thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu rất hay về tình
bạn: “Tình yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn”. Tình bạn
giữa tôi và Cát Đằng quả là hiếm có.
Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng
mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu
học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt
qua bên kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai Thúc Loan.
Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm công
chức cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật
đẹp của các loài hoa: Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan…Mấy chị em sống khép
kín như những con ốc trong bốn bức tường rêu.
Tôi, tên bình thường: An Nhiên, gia cảnh cũng “thường thường bậc trung”,
tóc cắt kiểu Demi Garcon, tính tình đôi lúc ương bướng. Vậy mà chúng tôi
thương nhau vô cùng. Chỉ có tôi dám bước qua hai cánh cổng sắt luôn khép
kín trong tiếng sủa của con Berger để rủ Cát Đằng đi học. Cũng chỉ có tôi
chiếm được lòng tin của ba mạ Cát Đằng. Hai bác nghiêm nghị nhưng coi tôi
như con. Hình như hai bác xem tôi là một lá chắn bảo vệ cho cô con gái yếu
ớt của mình.
Chúng tôi đã có một thời thơ ấu thật đẹp và hồn nhiên. Những chiều mùa hạ
dắt nhau vô con đường bên hông Đại Nội gần cà phê mụ Tôn, nhặt bông
phượng đỏ về làm bướm. Những sáng mùa đông sương mù lạnh buốt chở nhau
qua cầu Phú Xuân, gió hung hăng như muốn quật hai đứa xuống sông. Những
đêm cùng học bài thi, em gái Đỗ Quyên đem vào phòng cho hai chị chén chè
hạt sen long nhãn mát rượi. Mạ Cát Đằng thường cười bảo tôi “Phải chi An
Nhiên là con trai, bác gả Cát Đằng cho cháu.”
Tuổi dậy thì hồn nhiên và mơ mộng. Cát Đằng đẹp, nhiều người tán. Tan học
về bao nhiêu cái đuôi theo, mãi cho đến cửa Hiển Nhơn mới chịu lui gót.
Tôi như garde corps cho bạn. Những chàng sinh viên mê Cát Đằng, nhờ tôi
làm chim xanh kèm theo nhiều món quà hậu hĩnh, trong số có cả con của một
ông Trưởng Ty đang theo học trường Y. Nhưng tôi từ chối. Không ai hiểu bạn
hơn tôi. Cát Đằng tâm sự: “Sao mình thấy ông nào cũng nhẵn nhụi như Mã
Giám Sinh. Ngó phát ớn!”. Người hùng trong tâm tưởng Cát Đằng phải bụi
bụi như tài tử Charles Bronson, đêu đểu với bộ ria giống nụ cười của Clark
Gable hoặc chí ít cũng phải lãng tử như Gregogy Peck trên chiếc Vespa cổ
chở nàng công chúa Audrey Hepburn chạy khắp thành Rome trong Vacances
Romaines… Thâm tâm tôi thấy bạn mình quá lãng mạn. Biết tìm đâu ra người
lý tưởng trong môi trường phố thị này?
Ấy thế mà một hôm thật bất ngờ, “người hùng” của bạn đã xuất hiện.
Đó là một buổi sáng “đầy sương thu và gió lạnh” như trong
văn Thanh Tịnh, đoàn Sinh Viên Sỹ Quan trường VBQGVN về Huế vào Đại Học
Văn Khoa tuyển quân. Phải công nhận sự có mặt của họ như một hiện tượng
trong sân trường xưa nay toàn áo dài, chemise, quần tây. Trong trang phục
worsted thật đẹp, thật hào hùng mặt anh nào cũng sáng láng thông minh. Họ
trình bày thật ấn tượng về ngôi trường quân sự ở Đà Lạt ngang ngửa với
Saint Cyr của Pháp, West Point của Mỹ. Đứng bên những chàng trai Văn Khoa
“trói gà không chặt”, trông các anh cao to và đường đường khí thế. Nhìn
qua cạnh mình, tôi thấy Cát Đằng như trên mây. Nàng say sưa dán mắt vào
anh SVSQ đang giới thiệu chương trình đào tạo. Anh nói giọng Bắc pha chút
Huế. Khi chàng ta đi từng bàn phát những tờ ảnh về ngôi trường cho sinh
viên nam, Cát Đằng cũng nhoài người qua xin một tờ. Một thoáng ngạc nhiên
trong mắt anh nhưng người SVSQ vẫn lịch sự trao tận tay nàng. Mắt hai
người gặp nhau. Một cái gì đó thật lạ lần đầu tiên tôi thấy xuất hiện ở cô
bạn mình. Má nàng ửng hồng, ánh mắt long lanh, môi mọng ướt mềm…Chuông reo
giờ ra chơi, hai người còn trao đổi với nhau suốt cả mười lăm phút bên
hành lang Morin.
Ra về, tôi bảo Cát Đằng “ Mình thấy hình như có Coup de Foudre”.
Nàng yên lặng do dự một chút rồi bảo tôi: - “An Nhiên ơi, bạn có thương
mình không?”. Tôi ngạc nhiên: - “Tui không thương bạn thì thương ai?” -
“Vậy thì chiều ni bạn xin mạ cho tui qua chơi nhà bạn hí - Được thôi mà”
Buổi chiều, tôi ngồi chờ bạn trên chiếc xích đu dưới giàn
bông giấy. Nàng xuất hiện trong chiếc áo mousseline màu xanh trứng sáo,
quần tây đen. Trông Cát Đằng xinh xắn làm sao. Hèn gì con ông Trưởng Ty mê
nàng như điếu đổ. Ngồi nói chuyện với tôi mà mắt nàng nhìn ra cổng như
ngóng trông ai…Và bốn giờ chiều. Một bóng người xuất hiện trước cửa. Anh
chàng Sinh viên Võ bị hồi sáng…Cô nàng thông minh thật, lấy địa chỉ nhà
tôi làm nơi gặp gỡ.
Tôi không tin lắm vào duyên tiền định. Xưa nay, ba mạ vẫn hay nói tôi là
kẻ cứng lòng. Nhưng với cô bạn thân Cát Đằng thì tôi nghĩ đó là một mối
nhân duyên mà tôi là người góp phần dung túng, ủng hộ. Cô bạn tôi không
phải là type người “ yêu cuồng sống vội”. Xưa nay nàng chưa hề cười với ai
một nụ. Con nhà gia thế, kín cổng cao tường. Điều gì đã làm cho nàng dám
vượt qua khuôn phép gia đình và xứ Huế vốn dễ tiếng tăm?
Chàng sinh viên sỹ quan ấy tên H. đang theo học năm thứ ba trường Võ bị.
Anh gốc Bắc, di cư vào Nam năm 54, chọn Huế làm quê hương thứ hai. Anh
sống cùng mẹ và chị gái bên Bến Ngự. Anh hơn chúng tôi năm tuổi, trước đây
từng học MPC rồi mới quyết định tòng quân. Đợt tuyển quân này là một cơ
hội cho anh về thăm mẹ và số phận đưa đẩy để hai người gặp nhau.
Anh H. hiền, tính điềm đạm. Tôi chắc bạn tôi không chọn nhầm. Hai người có
một tuần để hiểu nhau. Tôi nhiều lần qua nhà Cát Đằng xin cho bạn đi học
nhóm, đi thảo luận… để rồi sau đó chở nàng lên đồi Thiên An, chùa Từ Hiếu
hẹn hò. Trong khi hai người trò chuyện, tôi lặng lẽ đi dạo dưới những hàng
thông hoặc ngồi đọc sách bên hồ Thủy Tiên để rồi sung sướng ngắm nhìn bạn
sáng ngời trong hạnh phúc. Tình yêu làm người ta đẹp ra. Anh H. đưa chúng
tôi về thăm gia đình. Căn nhà nhỏ nép mình trong một khu vườn sum suê cây
trái.Tiếng chim sâu kêu lách chách. Bà mẹ hiền lành mừng rỡ đón bạn của
con; người chị gái tên Hương thương em vô hạn, chăm anh từng ly từng tý.
Tôi mừng cho Cát Đằng.
Anh H. trở về Đà Lạt tiếp tục khóa huấn luyện. Nhà tôi trở thành địa chỉ
cho hai người trao đổi thư từ. Những bức thư đều đặn hàng tuần. Cát Đằng
có một cái hộp bánh CHOCOLATE hình chữ nhật.Đọc xong thư bạn cất vào đó
và nhờ tôi giữ hộ. Cuộc tình vẫn nằm trong bí mật với gia đình và bạn bè.
Không ai biết ngoài tôi.
Gần cuối năm 1971, sau khi đọc xong lá thư có cái insigne rồng vàng ôm
kiếm thiêng, Cát Đằng có vẻ suy tư. Bạn ngồi trầm ngâm trên chiếc xích đu
trắng nhìn mông lung. Tôi mở lời: “Răng đó? Giận nhau hả?”.
–“Không, có chi mô”. Lần này, bạn cầm lá thư về chắc để đêm nghiền
ngẩm.
Con đường đến giảng đường sáng hôm sau như dài ra với sự yên lặng của Cát
Đằng. Giờ English Grammar bạn dường như không nghe lời thầy John Schaffer
giảng. Lúc ra chơi, đứng ở khung cửa sổ nhìn xuống đường Lê Lợi, Cát Đằng
đưa bức thư cho tôi: “An Nhiên đọc đi!”.Tôi liếc nhanh qua bức thư với
những lời yêu thương nồng thắm nhớ nhung chất ngất, hơi đỏ mặt vì thấy
mình xâm phạm chuyện riêng tư của bạn. A, đây rồi. Cái lý do làm bạn tôi
trăn trở hai ngày nay. Anh H. muốn bạn tôi có mặt trong đêm Lễ trao
nhẫn truyền thống của SVSQ năm 3 trường Võ Bị. Là răng? Cát Đằng đi
Đà Lạt ư? Tôi không thể hình dung được chuyện này. Không được. Chuyện quá
nghiêm trọng với con gái Huế, nhất là với bạn tôi, một người chưa hề bước
chân qua đèo Hải Vân.
Ánh mắt của Cát Đằng tha thiết: “ An Nhiên giúp mình đi. Năn nỉ mà. Cam
đoan không có chi xảy ra. Mình đi ba ngày. Chỉ bạn mới có thể giúp mình…”.
Điều gì khiến một người con gái dịu dàng như Cát Đằng nẫy ra quyết định
liều lĩnh thế? Cái này gọi là sức mạnh của tình yêu đấy ư? Xưa nay tôi vốn
dị ứng với thứ tiểu thuyết lãng mạn của Quỳnh Dao và hoàn toàn không tin
vào nhan đề một cuốn truyện của Lệ Hằng “ Chết cho tình yêu”.
Không, không đựơc.
Hai đứa không nói chuyện với nhau suốt ba ngày. Nhưng cái vẻ ủ dột của Cát
Đằng làm tôi thương xót. Anh H. cũng gởi cho tôi một bức thư ngắn. Anh bảo
chính vì xem Cát Đằng là người trăm năm nên anh muốn nàng có mặt trong
buổi lễ trang trọng và ý nghĩa này. Anh chịu trách nhiệm về chuyến đi.
Lòng tôi mềm ra. Tình yêu xét cho cùng cũng có cái lý của nó. Tôi trở
thành kẻ đồng lõa trong cuộc hành trình của bạn.
Vậy là tôi sang nhà xin ba mạ Cát Đằng cho hai đứa vào Đà Nẵng ăn cưới bà
chị họ. Mạ bạn tỏ ra e ngại như tất cả những bà mẹ người Huế. Nhưng ba bạn
thoáng hơn, hình như ông đang vui vì mới trúng một cú affaire. Hơn nữa,
chơi với Cát Đằng hơn mười mấy năm, gia đình bạn tin tưởng tôi tuyệt đối.
Ba của bạn đích thân chở chúng tôi ra bến xe. Ông không thể ngờ rằng khi
tới Đà Nẵng, việc đầu tiên của chúng tôi là đến ngay Air Việt Nam trên
đường Độc Lập. Và chuyến bay DC six đưa Cát Đằng lên thành phố cao nguyên
lúc hai giờ chiều để lại tôi ở lại với cõi lòng như lửa đốt.
Ba đêm tôi ăn không ngon, ngủ không yên ở nhà bà chị. Tôi chắp hai tay
cầu nguyện Chúa, Phật và tất cả các đấng siêu nhiên cho chuyến đi thuận
buồm xuôi gió. Tôi hơi ân hận vì đã lạc lòng trước những giọt nước mắt
của bạn. Có chuyện gì xảy ra với Cát Đằng chắc tôi không sống nổi...
Và chiều thứ hai tôi đã oà khóc tức tưởi khi thấy bạn bước ra từ chiếc Bus
của Hàng không Việt Nam.
Nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy bạn xinh như vậy. Mặt Cát Đằng hớn
hở như trăng rằm, môi cười rất tươi. Nàng ôm choàng lấy tôi, hôn lên má :
- “Cám ơn An Nhiên. Chúng mình cám ơn bạn vô cùng”. Những giận hờn trong
tôi đều tan biến.
Trên chuyến xe ra Huế, Cát Đằng tíu tít kể cho tôi bao nhiêu chuyện. Thành
phố hoa, những con dốc mù sương, chuyến xe ngựa vòng quanh bờ hồ Xuân
Hương và một tấm ảnh đầy ấn tượng. Dưới ánh đèn huy hoàng có hàng chữ
Lễ trao nhẫn với hai cái dấu như hai vương miện, bên một cái nhẫn to
được trang trí cách điệu lộng lẫy, bạn tôi âu yếm lồng vào tay anh H.
chiếc nhẫn Võ Bị. Họ như đôi tân lang và tân nương trong ngày cưới. Mãi
mãi đây là một bí mật chỉ riêng ba người biết…
Thỉnh thoảng chúng tôi qua Bến Ngự thăm nhà anh H. Mẹ anh coi Cát Đằng như
con dâu tương lai. Bà kể về tuổi thơ vất vả của anh từ khi di cư vào Nam,
về lúc cha anh mất, về người con trai cả tên Hùng phải lưu lạc vào Bình
Dương kiếm sống. Có những đoạn xúc động, bà rươm rướm nước mắt. Cát Đằng
ngồi kế bên bóp nhẹ tay bà. Một hình ảnh dễ thương làm sao. Bà còn dạy cho
bạn tôi cách chế biến những món ăn mà con trai thích như canh cua rau đay,
bún chả…
Cuối năm 1972 anh H. ra trường. Anh có mười ngày phép trước khi về trình
diện tại Sư đoàn 9 Bộ binh có biệt danh “ Mũi tên thép”, Bộ Tư Lệnh Sư
đoàn đóng ở Vĩnh Long,Tư lệnh là Chuẩn Tướng Trần Bá Di. Chiến trường miền
Trung đang sôi động với chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Đêm đêm
tiếng đại bác ì ầm từ phía Bắc vọng về. Thành phố Huế tràn ngập màu áo
lính rằn ri.Cát Đằng có vẻ yên tâm với sự chọn lựa này dù hai người có xa
nhau về không gian. Mười ngày, tôi phải ra sức bao biện cho bạn để họ có
những giây phút hạnh phúc.
Rồi cũng đến lúc chia ly. Chúng tôi tiễn anh vào Nam. Hình ảnh cuối cùng
trong mắt tôi là cảnh chàng thiếu úy trẻ trai cầm chặt tay người yêu nói
những lời từ biệt: “Em cười đi. Cát Đằng cười đi cho anh yên tâm. Anh
sẽ về với em và sẽ thưa chuyện với ba mẹ”. Bạn tôi cười mà nước mắt
hoen mi.
Như muốn làm Cát Đằng yên tâm, thư anh H. gởi về liên tục. Anh đóng quân ở
Cao Lãnh. Anh làm Đại đội trưởng một đại đội trực thuộc Tiểu đoàn 3 Trung
đoàn 14. Anh nói về một vùng đất trù phú, những người dân miền Nam hồn
nhiên, những đồng ruộng bạt ngàn, những cánh đồng chó ngáp… Anh ít kể
chuyện chiến trường, chắc để người yêu bớt lo.
Nhà ông Trưởng Ty muốn dạm ngỏ Cát Đằng trước khi con trai đi du học. Cô
bạn tôi nói với ba mạ “Con chưa muốn lấy chồng” nhưng sau đó cô gặp riêng
chàng trai và bảo “Tôi có người yêu rồi. Anh đừng mất công”.Tội
nghiệp anh chàng cứ đứng ngẩn tò te.
Cứ thế, những lá thư nối hai niềm vui. Cát Đằng mơ màng dự trù với tôi về
tương lai. Một ngôi nhà với ngọn lửa ấm và những đứa con ngoan sẽ ra đời.
Ước mơ trong tầm tay với. Tôi chia sẻ hạnh phúc với bạn bằng nụ cười bao
dung.
Buổi chiều hai đứa ngồi trước sân hóng gió thì một cánh chim sâu sa xuống
trước mặt. Bạn tôi nâng nó lên, âu yếm vuốt ve “Tội nghiệp mày chưa. Chị
nuôi em nhé!”. Mạ Cát Đằng đi từ nhà sau lên hốt hoảng: “Chim sa cá
nhảy. Ăn nói bậy bạ”. Rồi bà lấy một nắm gạo muối tung ra sân. Bạn tôi
le lưỡi “Mạ sao mê tín dị đoan. Thả con chim thấy tội bắt chết!”
***
Huế tháng chín. Mùa thu. Những trái thanh trà da đã rám vàng. Tôi chở Cát
Đằng lên Nguyệt Biều chọn những trái thật ngon về cúng Rằm tháng Tám. Bạn
không quên lựa một cặp thật đẹp để biếu mẹ anh H. chưng bàn thờ. Hai đứa
ngồi thòng chân xuống dòng nước sông Hương trên bến đò Dã Viên. Trời thật
đẹp. Nắng vàng như mật. Gió hiu hiu. Cát Đằng thở dài “Phải chi có anh H
”. Tôi nguẩy vai “Rồi sẽ có ”.
Rẽ vào căn nhà dốc Bến Ngự. Cô bạn nhanh nhẹn nhảy chân sáo trên lối đi
quen thuộc. Nhà vắng ngắt. Mùi hương trầm thoang thoảng trên bàn thờ. Chị
Hương ngồi lặng trên ghế, nước mắt chảy quanh. Bạn tôi hốt hoảng: “Có
chuyện chi rứa chị? Mẹ mô rồi? ”. Chị Hương òa khóc: “ Mẹ với anh Hùng đi
Vĩnh Long. Em ơi, thằng H.”…. Cát Đằng quỵ xuống đất. Tôi và chị Hương đỡ
vội lên. Mặt bạn tái xanh, hơi thở ngắn như không còn sức sống. Tôi rót
cho bạn một ly nước lọc rồi hỏi han chi tiết. Chị Hương kể cho tôi nghe
trong tiếng sụt sịt. Anh Hùng từ Bình Dương gọi ra báo tin anh H. bị
thương nặng trong cuộc hành quân vào mật khu ở quận Mỹ An, vùng Đồng Tháp
Mười. Mẹ chị đang trên đường vào, chưa biết chi thêm.Trong bóng chiều
chạng vạng, ba chị em ngồi yên lặng. Không ai đủ sức đưa tay bật ngọn đèn
điện. Chao ôi! Tuần trước tôi vừa đưa thư cho bạn. Anh đang đóng quân ở
Đồng Tháp. Anh kể cho bạn nghe về Gò Công - quê hương của bà Từ Dũ mẹ vua
Tự Đức; về cam Cái Bè; về mận Trung Lương …Thượng đế ác nghiệt vậy sao?
Anh vừa tròn 24 tuổi, ra trường mới chín tháng…
Không biết bằng cách nào tôi đã đưa Cát Đằng về đến nhà. Bạn ngồi sau tôi
xiêu vẹo như một cái xác không hồn. Tôi nói với bác gái bạn bị trúng gió
rồi đưa bạn vào phòng. Chân tay bạn lạnh ngắt. Đêm ấy tôi xin ở lại, thi
thoảng lắng nghe tiếng rên rỉ đau đớn của Cát Đằng. Mọi ngôn ngữ trong
giây phút này đều bất lực!
Nhưng nỗi bất hạnh không chỉ ngang chừng đó.Trong khi Cát Đằng định thưa
thật với ba mạ để xin phép vào Vĩnh Long thì mươi hôm sau, mẹ anh H. nhắn
ra anh H. không chỉ bị thương nặng mà còn mất tích. Cầm bằng như anh đã
chết.Thôi còn mong chi nữa. Lần này thì bạn tôi quỵ ngã hoàn toàn. Nỗi đau
ẩn giấu tận trong tim biến bạn thành một bóng ma câm lặng. Bác gái cứ căn
vặn tôi hai đứa có chuyện chi không. Làm sao tôi dám trả lời. Thôi cứ đế
bác tối tối thắp nhang ngoài cổng ngõ cầu cho con gái yêu đừng mắc “bệnh
đàng dưới ”.
Phải sau ba tháng mẹ anh H. mới ra Huế. Bà sút gần bốn kí và hốc hác hẳn
đi. Bà ôm lấy Cát Đằng khóc nghẹn “Con ơi! Bác không có duyên làm mẹ con
rồi!”. Cát Đằng òa lên nức nở. Thôi cứ để bạn khóc cho nhẹ lòng.Tôi thật
đau xót khi thấy đêm đêm bạn lôi tấm ảnh hai người trao nhẫn ra ngắm
nghía.
Không hiểu sao nhà anh H. không lập bàn thờ. Có lẽ niềm tin của người mẹ
cho rằng con mình chưa chết. Vâng, mất tích chưa hẳn là chết. Mắt anh
sáng, tai anh to vậy mà. Chắc bác vẫn hy vọng một phép mầu nào đó chăng?
Căn nhà đóng kín cửa. Mẹ anh H. vắng nhà luôn. Chị Hương bảo bà vào Bình
Dương chơi với cháu nội cho đỡ buồn. Khu vườn rộng thui thủi một mình chị.
Mỗi lần ghé thăm, nhìn Cát Đằng, chị lại bệu bạo “ Số em sao khổ thế H.
ơi!”
Những đợt trao trả tù binh hai bên ở Lộc Ninh, Quảng Trị làm cho Cát Đằng
hi vọng. Biết đâu anh sẽ trở về. Anh chỉ bị thương thôi mà. Bạn chăm chú
theo dõi trên những tờ báo Tiền Tuyến, Sóng Thần… Nhưng tháng ngày qua.
Niềm hi vọng hầu như đã thành tuyệt vọng. Bất chấp hiệp định Paris, chiến
sự ngày càng ác liệt. Máy bay cứu thương liên tục hạ xuống bệnh viện Mang
Cá trong Thành Nội…
Rồi Huế nháo nhác, tan tác…Rồi đất nước tang thương…
Ba Cát Đằng đi “cải tạo” vì bị xếp vào loại “ Ngụy quyền”. Bạn tôi bước
xuống cuộc đời.
Trải một tấm nilon ở góc chân cầu Trường Tiền, Cát Đằng đi bán chợ trời.
Cô tiểu thư con nhà quyền quý ấy bây giờ phải bươn chải với gánh nặng áo
cơm của cả gia đình. Bạn bán từng cái áo nhà binh cho người đi lao động,
vài cái lon Guigoz tiện cho người đi thăm nuôi, những chiếc áo dài cũ của
vợ các sỹ quan một thuở huy hoàng, gói thuốc lá Tam Đảo nặng mùi khét lẹt
cho đến cái chén kiểu, ly tách sang trọng một thời vang bóng...Nhìn bạn
đếm từng hào tiền Bắc sau buổi chợ, tôi chảy nước mắt. Nhưng một nửa đất
nước đều như thế, biết làm sao.
Thi thoảng nhờ em gái Hoàng Lan coi hàng, chúng tôi lên Thiên An quét lá
thông về làm chất đốt. Củi cũng phải mua bằng tem phiếu mà gia đình chúng
tôi làm gì có đặc quyền đặc lợi ấy. Sau khi nhét đầy lá vào hai bao tải,
chúng tôi ngồi dựa gốc cây nghỉ mệt. Cát Đằng âu sầu đưa mắt nhìn chung
quanh.Tôi biết trong đầu bạn đang nghĩ về những kỷ niệm xưa. Cũng nơi
này, ngày ấy có một cặp tình nhân thật đẹp đang nắm tay nhau đi dưới rặng
thông. Cảnh đấy người đây nhưng một người đà khuất bóng. Tôi không dám
gợi lên điều gì với bạn. Mọi chuyện cứ như là một giấc mơ nhưng mỗi sáng
mai thức dậy lại phải đối mặt với sự thật kinh hoàng.
Thành phố tăm tối hẳn đi. Mới 8 giờ tối điện đã cúp. Những chiếc Honda đổi
chỗ cho giai cấp cán bộ. Huế xuất hiện xe đạp thồ. Những khuôn mặt đau khổ
nhếch nhác. Những câu ca dao hiện đại được thầm thì chuyền miệng. Những
bài hát được chế biến bi hài. Người ta nhắc lại câu nói mười bốn chữ bất
hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. “Rồi cứ thế ni mãi răng???” Mạ
tôi ngữa mặt than trời rồi chặt hết những cây mai vàng thay vào mấy luống
khoai lang cứu đói!
Bốn năm sau, ba Cát Đằng chết trong tù vì sức tàn lực kiệt. Mạ bạn khô
nước mắt đi thăm mộ chồng ngoài Thanh Hóa. Một mô đất trơ trọi trong rừng
được đánh dấu bằng viên đá xanh lớn. Còn đâu người đàn ông khả kính trụ
cột gia đình. Tóc bà bạc trắng. Cái lúm đồng tiền xưa kia đã trở thành
ngoặc đơn rồi ngoặc kép.
Từ nước ngoài người con trai yêu Cát Đằng ngày đó xuất hiện như một vị cứu
tinh. Anh ta gởi về giúp gia đình bạn những xấp vải, những gói thuốc tây,
những đồng đô la được khéo léo nhét trong hộp sữa… Tất cả chỉ nhằm một mục
đích chinh phục tình yêu của người con gái Huế mà anh ta say đắm. Mạ bạn
tha thiết khẩn nài “Con ơi! Thằng đó nó tốt, lại hiền lành, con nhà trí
thức. Lấy hắn con cũng sướng mà các em cũng đỡ khổ. Với lý lịch này thì
nhà mình không ngóc đầu lên được. Con chỉ có nước lấy anh xe thồ hoặc ông
nông dân mà thôi”. Bạn tôi gục mặt vào hai bàn tay khóc nghẹn. Phải chăng
bạn đang nghĩ đến một Thúy Kiều hiện đại?
Tôi khuyên Cát Đằng: Mọi chuyện đã trở thành quá khứ. Anh H. mất rồi. Đã
gần 7 năm. Bạn đâu phải là kẻ phụ tình. Trong hoàn cảnh này đôi khi phải
thực tế. Bạn yên lặng gật đầu.
Mọi chuyện được thu xếp nhanh chóng. Bà mẹ chú rể từ nước ngoài trở về.
Một vài lễ nghi cần thiết trong buổi giao thời. Và xúc tiến giấy tờ bảo
lãnh.
Tôi đưa Cát Đằng lên thăm chị Hương lần cuối. May sao lại gặp mẹ anh H.
từ Bình Dương trở về. Bác bảo có thể bác sẽ vào trong đó ở hẳn. Bác ôm
vai bạn tôi: “Bác mừng cho con. Biết tin này ở đâu đó chắc H. vui lắm”.
Trên bàn thờ vẫn chưa có ảnh của anh. Ghê gớm thay lòng tin của người mẹ.
Bạn tôi xin phép được lạy trước bàn thờ ba lạy và nhét vào túi mẹ anh H.
chút vốn liếng còm cỏi. Nước mắt người mẹ ứa ra tràn trề. Bà khẽ kêu “ H.
ơi! ”.
Trước khi xuất cảnh, Cát Đằng đến nhà tôi ngủ lại một đêm. Bạn đem theo
cái hộp bánh CHOCOLATE chứa những bức thư của hai người, tấm ảnh trao
nhẫn được đặt lên trên. Cát Đằng bảo tôi “An Nhiên là một chứng nhân quan
trọng trong mối tình lớn của mình. Mình không thể mang theo kỉ vật quý
giá này. Bạn giữ giúp mình cho đến lúc nào còn có thể ”. Tôi cất vào tủ
sách, lòng ngậm ngùi thương bạn.
Thời gian qua, Cát Đằng đã có một gia đình êm ấm. Ông chồng thành đạt, hai
con một trai một gái xinh xắn. Cả hai đang định cư ở thành phố Denver,
tiểu bang Colorado. Tôi mừng cho bạn. Cuối cùng, một cô gái ngoan hiền như
bạn tôi nhất định phải được sung sướng. Qua những cuộc trò chuyện từ nước
ngoài, tôi tránh gợi chuyện ngày xưa.
Tôi cũng đã có gia đình. Một ông chồng do bàn tay số mệnh sắp đặt. Một ông
chồng yêu vợ thương con nhưng vô tâm. Tôi cũng chẳng bao giờ hé môi về
chuyện bạn mình…
***
Ngày mai, gia đình tôi sẽ vào Nam lập nghiệp. Mở tủ sách, tôi cầm cái hộp
bánh cũ. Những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng tấm ảnh vẫn còn rất rõ.
Ôi! Nụ cười hạnh phúc của cả hai người.
Tôi không thể đem chúng theo. Đốt thì tôi không nỡ. Suy đi tính lại, tôi
quyết định đem lên nhà chị Hương, nhờ chị đặt trên bàn thờ anh H. Không
còn gì để hy vọng về anh nữa rồi.
Căn nhà vẫn như xưa dù thời gian có làm nó già và cũ kỹ hơn. Tiếng chim
sâu vẫn kêu lách chách trên những vòm cây xanh. Tôi dựng chiếc xe vào gốc
ngọc lan, lòng bùi ngùi. Kỷ niệm ngày xưa ùa về trong ký ức. Một chiếc xe
lăn trên hàng hiên. Tôi trách mình đã lâu không thăm mẹ anh. Cuộc sống bận
rộn với cơm áo, gạo tiền làm mình trở thành người có lỗi.
Tôi tự nhiên đẩy cửa vào phòng khách khép hờ. Một người đàn ông nằm trên
ghế sofa, tay cầm cuốn sách, chiếc chăn mỏng đắp ngang thân, phía bên dưới
là một… khoảng trống. Anh ngước nhìn lên. Có phải tôi đang mơ? Đôi mắt ấy,
gương mặt ấy… Đúng là anh H. Anh cất tiếng “An Nhiên đấy ư em? ”. Tôi bàng
hoàng, ngơ ngẩn.
Vâng, anh H. Anh bị thương nặng nhưng không chết. Trong cuộc hành quân
của Tiếu đoàn vào mật khu Đồng Tháp Mười, đại đội của anh sa vào ổ phục
kích. Môt mảnh B40 đã bay vào lưng anh, chạm ngay cột sống. Anh được đưa
về quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Bác sỹ cho biết mảnh đạn đã làm
đứt dây thần kinh tủy sống dẫn đến khả năng bại liệt suốt đời. Trong cái
đau đớn tận cùng của thể xác, anh vẫn nghĩ đến Cát Đằng. Không thể gắn số
phận bất hạnh của mình đối với người yêu, anh cắn chặt răng bảo mẹ báo tin
với Cát Đằng là mình bị mất tích. Và người mẹ đã làm theo lời anh…
Từ Cần Thơ, anh được chuyển vể Tổng y viện Cộng Hòa. Các bác sỹ và y tá
tận tâm chăm sóc anh. Vết thương bên ngoài tạm ổn, anh sang Trung tâm
phục hồi chức năng. Mẹ già theo sát anh từng bước. Đó là lý do khiến bà
bảo với Cát Đằng mình vào Nam sống với người anh cả.
Sau ngày 30 tháng 4, tất cả thương binh nặng nhẹ đều bị tống ra đường. Anh
về Bình Dương nương tựa nhà anh Hùng. Vết thương không còn được quân y
viện chăm sóc, lâu ngày bị hoại tử và hai chân anh bị tháo khớp tới gối.
Mẹ già mất, Cát Đằng đã đi xa, anh quyết định về Huế sống phần đời còn lại
bên người chị gái thương yêu. Gần mười mấy năm nay anh sống nhờ vào sự cưu
mang, đùm bọc của các khóa Võ Bị ở nước ngoài, những chiến hữu cùng đơn vị
và một số anh em còn kẹt lại ở quê nhà... Cao quý thay tình nghĩa đồng môn
của những chàng trai cùng trường Mẹ! Anh cũng tự ôn kiến thức để dịch
thuật, để luyện thi cho các học sinh nghèo vào Đại học. Cụôc sống không
đến nỗi thấy mình là người vô dụng.
Cầm xấp thư và tấm hình, anh H. trầm ngâm bảo tôi: “Anh cám ơn An Nhiên.
Cố vật đã tìm về cố chủ. Cứ để cho Cát Đằng nghĩ rằng anh đã chết. Đó
chính là tình yêu của anh dành cho cô ấy”. Anh nâng chiếc nhẫn có viên
hồng ngọc trên ngón tay áp út, âu yếm hôn vào nó. Chiếc nhẫn năm xưa, Cát
Đằng đã lồng vào tay anh trong đêm Lễ trao nhẫn trên Vũ đình
trường.
Một cơn gió lạnh thoảng qua. Mùa Đông đã về trên thành phố.
Hương Thủy
1/20/15
Vài Hình Ảnh Buổi Ra Mắt Sách Chính Luận Của Trần Trung Đạo
Tôi đã đọc thơ văn của anh Trần Trung Đạo từ lúc còn đang cắp sách đến trường ở Việt Nam trước năm 75. Đọc những bài thơ về mẹ, về thân phận, về quê hương của anh tôi cảm thấy rất gần gủi với mình.
Dù ngày ra mắt sách của anh trùng với ngày gói báo Đa Hiệu nhưng chúng tôi cũng gói xong Đa Hiệu 103 kịp giờ đến tham dự buổi ra mắt sách của anh.
Dù ngày ra mắt sách của anh trùng với ngày gói báo Đa Hiệu nhưng chúng tôi cũng gói xong Đa Hiệu 103 kịp giờ đến tham dự buổi ra mắt sách của anh.
1/19/15
Trần Việt Hải: Bạn tôi, Trần Trung Đạo

Giới
thiệu: Đang ngồi chờ máy bay nhận được bài viết của nhà văn Trần Việt
Hải, viết đê giới thiệu Chính Luận Trần Trung Đạo nhân dịp tác phâm này
sẽ được giới thiệu ngày mai, 18 tháng 1 tại Nam California. Bài viết
khá dài vì anh viết rộng đến nhiều lãnh vực trong đó có cả thi ca và tôn
giáo, cũng như trích dẫn khá đầy đủ những điêm chính của Chính Luận.
Xin chia sẻ cùng anh chị và các bạn.
*********************************************************
*********************************************************
Nhân hai nhà thơ
Nguyễn Thanh Huy và Nguyễn Tiến Quỳnh Giao cho tôi biết Trần Trung Đạo
sẽ sang Nam California để ra mắt tác phẩm mới, "Chính Luận Trần Trung
Đạo". Tôi ngẫm nghĩ về tựa đề này, 3 chữ sau vốn quen thuộc với nhiều
người rồi, thế thì hai chữ đầu mang ý nghĩa gì nhỉ; Với thiển ý thì
"Chính Luận", có thể Đạo suy tư về những nan đề về những chiến thuật cấp
bách hay những chiến lược quan yếu dài hạn mà những người quốc gia
chúng ta có thể tìm được những đề nghị hay những phân tích về chủ đề do
Đạo trình bày. Chính luận có vai trò đặc biệt trong dòng lịch sử đấu
tranh chính trị, văn hóa và xã hội và vì ngày hôm nay chúng ta không đấu
tranh chống người Cộng sản bằng võ khí quy ước nữa, nhưng bằng phương
tiện hình ảnh, chữ nghĩa, mang khía cạnh chiến tranh tâm lý chiến. Thế
nên "Chính Luận Trần Trung Đạo" trong cái nhìn của người viết bài là một
trong những phong cách sáng tác tiêu biểu nhất biểu tượng những nan đề
hay chủ điểm mà tác giả Trần Trung Đạo đã khai triển gởi đến người đọc
và cũng là những chủ điểm ý thức hệ của người cầm bút. Ba nan đề chính
được khai triển và phân tích cặn kẽ gồm Hiểm họa Trung Cộng, Thực trạng Việt Nam và Chính sách tẩy não của Cộng Sản Việt Nam.
Chính
luận Trần Trung Đạo là một tuyển tập gồm các bài tham luận chính trị
dày 600 trang gồm 42 bài chọn lọc của nhà văn Trần Trung Đạo trong nhiều
năm qua. Nay được đúc kết theo tuần tự đề mục ăn khớp với nhau, để khi
độc giả đọc sẽ theo luồng tư tưởng mạch lạc.
Tác phẩm trình bày chủ đề Hiểm họa Trung Cộng
qua 14 bài,tác giả trình bày các kinh nghiệm lịch sử của thế giới qua
chính sách của các chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, Tiệp Khắc, Nam Phi, kinh nghiệm
Thổ Nhĩ Kỳ chủ trương cứng rắn chống Liên Xô, đứng hẳn về phía Tây
phương. Kinh nghiệm "Phần Lan hóa" bởi Liên Xô vì chịu ảnh hưởng chính
trị Nga qúa nặng. So sánh chính sách của Hitler trong thế chiến thứ hai
và chính sách của Trung Cộng hiện nay, phân tích chủ nghĩa thực dân
Trung Cộng tại các quốc gia Phi Châu như Congo, Angola, Zimbabwe, Sudan
cũng như chủ trương bành trướng của Trung Cộng tại vùng Đông Nam Á.
Trung Cộng muốn Việt Nam những gì Liên Xô muốn Phần Lan khi xưa và tham
vọng xâm lăng Hán hóa nhiều hơn. Sự kiện sai lầm của đảng Cộng Sản Việt
Nam qua Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng năm 1958 và sự kiện đau lòng
chúng ta khi suy tư về hậu quả mất nước do Hội Nghị Thành Đô đầu thập
niên 1990.
Người viết bài còn nhớ những câu nói ngô nghê của viên Tổng Bí Thư Lê Duẩn: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Lên Xô, Trung Quốc". Hay của viên Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết: "Có
người ví von Việt Nam, Cuba như là trời đất sinh ra, một anh ở phía
đông, một anh ở phía tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hoà bình cho thế
giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ”. Những ý tưởng nô lệ người.
Nan đề kế là Hiện trạng Việt Nam
gồm 16 bài, trình bày các phong trào thanh niên sinh viên học sinh
trước 1975, các phong trào xã hội tại Việt Nam, xã hội dân sự, cuộc đấu
tranh dân chủ của thế hệ trẻ, các khó khăn và triển vọng của cuộc vận
động dân chủ tại Việt Nam hiện nay.
Phần này tác giả gửi
tâm bút như nỗi lòng xây dựng đặt niềm tin vào tuổi trẻ Việt Nam đem lại
dân chủ để đưa dân tộc Việt Nam đến tương lai tươi sáng, tác giả trân
trọng khi ghi ngay nơi trang đầu của sách Chính Luận là "Tặng tuổi trẻ
Việt Nam.".
Đề cập về yếu tố dân tộc độc lập và con đường
cứu nước phải là tự do dân chủ theo tác giả Trần Trung Ðạo, dân chủ là
giải pháp duy nhất cho Việt Nam. Vì chỉ có dân chủ thì mới đẩy lùi hiểm
họa bắc thuộc, cho phép người dân nhập cuộc giải quyết các vấn nạn xã
hội, tạo môi trường cho đất nước hoà nhập vào thế giới tự do và phát
triển. Tác giả nhắc nhở rằng "con đường đến dân chủ rộng thênh thang, đủ
rộng cho mọi người cùng tham gia". Thật vậy, mỗi cá nhân chúng ta có
thể chọn lựa phương thức riêng tư của mình trên con đường mà cứu cánh
đảng Cộng Sảnn Việt Nam phải bị triệt tiêu. Hãy mở các mũi nhọn cho dân
chủ nhân quyền. Nhân quyền là giá trị toàn cầu mà các quốc gia văn minh
tiến bộ tôn trọng và công chúng ở các nơi đó quan tâm và chia xẻ. Dân
chủ chỉ có khi người dân biết kết hợp thành sức mạnh vượt lên trên sức
mạnh của chế độ.
Và Bài học tẩy não sau hết là
chủ đề thứ ba gồm 12 bài, phân tích chính sách tẩy não như cột xương
sống đang chống đở chế độ Cộng Sản hiện nay, các phương pháp giải tẩy
não, tiêm nhiễm, đầu độc qua các chính sách tẩy não tại Liên Xô trước
đây và của Bắc Hàn, Trung Cộng, Việt Nam hiện nay. Trang 519 của sách
Chính Luận ghi nhận sự kiện Tẩy não là chủ đề chính thứ ba trong sách
Chính Luận. Tác giải bàn luận về vai trò của chính sách tẩy não trong
chế độ Cộng Sản, tác giả viết rằng: "Khái niệm tẩy não được biết đến từ
lâu qua các phương cách gian tà, chiến tranh, tình báo, tuy nhiên chỉ
dưới các chế độ Cộng Sản kỹ thuật này mới được nâng lên thành quốc sách
và được thực hiện một cách triệt để, được hệ thống hóa, bao trùm mọi
lãnh vực xã hội và trong mọi tầng lớp nhân dân."
Phần sau
đây là những điểm mà người viết xin trình bày những tài liệu do tác giả
Trần Trung Đạo viết và phổ biến. Tôi đọc bài viết về sự tẩy não mà hai
chế độ Cộng Sản áp dụng, nên trong bài Đảng 50 Xu tại Trung Cộng, Trần
Trung Đạo viết: "Như người viết đã có dịp phân tích về Chính sách
tẩy não của CS, ngày nào các chính sách tuyên truyền CS không còn hiệu
quả, đó cũng là ngày trái tim của chế độ ngừng đập, đúng như Anne-Marie
Brady viết trong trang đầu của tác phẩm Marketing Dictatorship:
Propaganda and Thought Work in Contemporary China: “Tuyên truyền thật là
máu sống của đảng và nhà nước CS”. Tuyên truyền dưới chế CS là cả một
hệ thống tinh vi, phức tạp, đa diện, bài viết này chỉ bàn đến bộ phận có
chức năng kiểm soát và lèo lái dư luận trên các trang mạng internet, đó
là bộ phận Dư Luận Viên. CSVN rập khuôn các chính sách tuyên truyền của
Trung Cộng, do đó từ các nghiên cứu về Trung Cộng, sẽ dễ dàng suy ra
các chính sách vận dụng dư luận của CSVN.
Tại
Trung Cộng, dư luận viên không chỉ chịu sự kiểm soát của Ban Tuyên
Truyền Trung Ương (Việt Nam gọi là Ban Tuyên Giáo Trung ương) về các
chính sách chung của đảng CS nhưng mỗi bộ trong chính phủ Trung Cộng
cũng có các dư luận viên riêng để phục vụ cho chính sách riêng của bộ và
có trách nhiệm trả lương cho dư luận viên này. Lực lượng dư luận viên
giấu mặt này được gọi chung là Đảng 50 Xu (五毛党 wǔmáo
dǎng) vì khi bắt đầu năm 2004 họ được trả 50 Xu cho mỗi lời bình. Mười
năm sau, vật giá leo thang, mức lương cũng gia tăng theo, nhưng thành
phần dư luận viên vẫn còn được gọi là những đảng viên của Đảng 50 Xu.
Các lãnh đạo bộ máy tuyên truyền Trung Cộng cho rằng danh từ Đảng 50 Xu
là sản phẩm tuyên truyền của Mỹ, Nhật dùng để chế giễu các cơ quan thông
tin Trung Cộng."
Trở lại hiện trạng Việt Nam, trong bài tiểu luận "Tuổi trẻ Việt Nam, học lịch sử để làm lịch sử", Đạo viết:
"Ba
mươi ba năm sau. Cũng những ngày cuối năm, ngồi xem hình ảnh các cuộc
biểu tình ở Hà Nội, đọc bản tin được viết vội vàng trên đường phố Sài
Gòn, đọc danh sách của những người ký tên, trong đó đa số là tuổi trẻ,
để phản đối Trung Quốc vi phạm lãnh thổ Việt Nam trên Internet, tôi vui
mừng và cảm động. Trung Quốc không phải vì các cuộc biểu tình của các em
mà trao trả lại Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam, nhưng chắc chắn sẽ
ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách bá quyền của họ trên biển Đông.
Để duy trì mức phát triển kinh tế hiện nay và chạy đua với các cường
quốc kinh tế, Trung Quốc đang cần sự ổn định chính trị và kinh tế hơn
bất cứ quốc gia nào khác trong vùng. Nhìn các em tôi lại nhớ đến chính
mình. Đường phố Sài Gòn, nơi các em đang đứng hôm nay cũng là nơi tôi đã
đứng đọc từng tên của những người đã ở lại trong lòng biển cả. Khẩu
hiệu “Hoàng Sa là của Việt Nam” cũng là khẩu hiệu mà sinh viên chúng
tôi đã hô ba mươi ba năm trước. Chúng ta có thể còn vài điểm khác nhau
nhưng có chung một tổ quốc. Đó là điều hệ trọng. Lòng yêu nước đã thúc
giục các em vượt qua bức tường sợ hãi, bất chấp sự ngăn cản của Đảng,
của nhà nước, của ban lãnh đạo trường để cùng xuống đường nói tiếng của
một người Việt Nam khi tổ quốc lâm nguy. Lịch sử bao giờ cũng mang tính
thời đại, và trang sử Việt Nam hôm nay đang được viết bởi các em, những
người Việt Nam đang đứng trước toà đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội, trước
lãnh sự quán Trung Quốc ở Sài Gòn. Và cũng qua những biến cố lịch sử
này, các em sẽ có cơ hội thấy những sự thật đắng cay, những bài học bẽ
bàng mà từ trước đến nay đã bị che lấp bởi hệ thống tuyên truyền lừa dối
của Đảng. Các em đang học lịch sử và đang làm lịch sử...”
Lãnh
đạo Đảng đã, đang và chắc sẽ làm tất cả những gì họ có thể làm để ngăn
cản các cuộc biểu tình dù ôn hoà và bất bạo động của tuổi trẻ Việt Nam.
Tuần trước họ ra chỉ thị cấm biểu tình, tuần này họ chụp mũ các em chống
phá trật tự xã hội, tuần sau họ sẽ đem xe chữa lửa đến đàn áp và tuần
sau nữa có thể trục xuất khỏi trường, bắt giam, kết án, tù đày. Tuy
nhiên, lịch sử đã nhiều lần chứng minh, khi một chế độ chỉ còn trông cậy
vào các phương tiện bạo lực trấn áp để tồn tại, chỉ còn biết sử dụng bộ
máy công an kềm kệp để duy trì quyền cai trị, ngày tàn của chế độ đó
chỉ là vấn đề thời gian. Hành động tuyệt vọng của Nicolae Ceausescu khi
ra lệnh công an bắn vào cuộc biểu tình của nhân dân Rumania sáng ngày 17
tháng 12 năm 1989 chỉ để dẫn đến bản án tử hình dành cho vợ chồng ông
ta một tuần sau đó. Lãnh tụ cộng sản Slobodan Milosevic một thời là tổng
thống Serbia đầy quyền lực nắm trọn quyền sinh sát trong tay, cuối cùng
cũng phải chết trong tù. Erich Honecker hung thần Đông Đức, Idi Amin
đao thủ phủ của Uganda hay Mobuto bạo chúa của Congo đều đã gởi tấm thân
tàn trên đất khách, để lại tiếng xấu muôn đời. Nếu giới lãnh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam còn nghĩ đến tương lai của chính họ và còn biết lo cho
tương lai của đất nước, họ phải chọn đứng về phía dân tộc.
Con
đường duy nhất để đạt đến một tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và
thịnh vượng là con đường dân tộc và cũng chỉ có một Việt Nam tự do, dân
chủ, nhân bản và thịnh vượng thì các thế hệ Việt Nam mai sau mới có cơ
may giành lại được Hoàng Sa và Trường Sa."
Trần Trung
Đạo luôn trân trọng với tuổi trẻ Việt Nam, tương lai của dân tộc, Đạo
viết bài "Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em.",
hãy xem:
"Cô bé đứng trên bục cao, đôi kính cận có
cọng dày, tóc vén cao, áo trắng học trò, thân hình mảnh mai trông giống
như một cô bé học sinh 15 tuổi đang đứng bảng đen trong lớp học chứ
không phải đứng trước tòa án Cộng Sản. Em không sợ hãi, không van xin,
trầm tĩnh và tinh khôi như một thiên thần: "Tôi là sinh viên yêu nước,
nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và
không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi
trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm".
Cạnh
em, Đinh Nguyên Kha, áo sơ mi trắng, tóc cắt cao của một thanh niên
Việt Nam kiểu mẫu. Nguyên Kha cũng dõng dạc: "Tôi trước sau vẫn là một
người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ
chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội".
Nguyễn
Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha không khuất phục. Chuyện “thú tội”, “xin
khoan hồng” chỉ mới vài năm trước đây nhưng như đã thuộc vào quá khứ xa
xôi, một thời kỳ còn chập chững đấu tranh, một phương pháp nay đã lỗi
thời. Tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc là một tự nguyện phát xuất từ
trái tim và lòng yêu nước. Không ai bắt các em phải làm những việc các
em không chọn lựa. Nhịp đập chân thành của con tim và tiếng gọi thiêng
liêng của lòng yêu nước không cho phép một người gập đầu “xin khoan
hồng”, “thú tội” dù chỉ là một hình thức trá hàng. Bảo vệ tổ quốc là một
niềm vui, niềm hãnh diện. Nếu đã chọn hy sinh phải hy sinh cho trọn vẹn
với lý tưởng của đời mình.
Tình yêu
nước trong lòng Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha vô cùng trong
sáng. Không giống Nguyễn Thị Minh Khai trước giờ bị xử tử hô lớn “Đảng
Cộng sản Việt Nam muôn năm!” để thể hiện tinh thần bất khuất, kiên trung
của bà ta đối với đảng, hay Lê Hồng Phong, trong lời trăn trối cuối
cùng ngoài Côn Đảo chỉ nguyện trung thành với đảng, Phương Uyên và
Nguyên Kha chỉ nghĩ đến những bà mẹ Việt Nam đang buôn tảo bán tần, nghĩ
đến các em thơ đang lây lất trên đường phố, nghĩ đến máu các chú bác đã
đổ xuống ở Hoàng Sa, nghĩ đến nắm xương của các chú bác đã thành cọc
cắm lên hải đảo Trường Sa..."
Trong bài tiểu luận khác: "Trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam", xin trích đoạn:
"Đảng
Cộng sản thắng trong chiến tranh không phải vì họ có chính nghĩa, mà
bởi vì họ đã kiên trì với mục đích nhuộm đỏ Việt Nam, được tổ chức một
cách tinh vi từ trung ương Đảng cho đến tận tổ ba người và khai thác
triệt để lòng yêu nước sâu đậm của người dân Việt Nam. Tôi cũng có một
niềm tin rằng dân tộc Việt Nam với mật độ dân số trung bình không quá
đông hay quá ít, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với lực
lượng chuyên viên đông đảo trong các ngành khoa học đang có mặt trên
khắp thế giới, với truyền thống yêu nước Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa
vẫn chảy đầy trong huyết quản, nếu được chắp đôi cánh tự do, dân chủ,
nhân bản, Việt Nam sẽ bay lên cao, sẽ thật sự trở thành một cường quốc
kinh tế, cường quốc quân sự, sẽ đủ khả năng bảo vệ sự toàn vẹn vùng
trời, vùng biển của tổ quốc thiêng liêng. Nếu không có tự do dân chủ,
“khát vọng cất cánh” mà anh Tô Nhuận Vỹ nêu ra trong phần đầu tiểu luận
chỉ là một giấc mơ tiên.
Có người cho
rằng Đảng Cộng sản đã có một thời đồng hành với dân tộc, cùng hướng đến
một mục tiêu như dân tộc Việt Nam, do đó vai trò lãnh đạo của Đảng ngày
nay là hệ quả tất yếu của lịch sử. Tôi không đồng ý. Đó là lý luận của
kẻ cướp. Với tôi, rất nhiều đảng viên Đảng Cộng sản tham gia chống Pháp
phát xuất từ lòng yêu nước và đã chết cho đất nước như tôi đã nhiều lần
viết trên diễn đàn này, nhưng bản thân Đảng Cộng sản như một tổ chức
chính trị chưa bao giờ đồng hành với dân tộc. Việc giành lại nền độc lập
và chủ quyền đất nước từ tay thực dân là mục tiêu, là bến bờ của dân
tộc Việt Nam, trong khi đó đối với Đảng Cộng sản, độc lập dân tộc chỉ là
phương tiện, một chiếc cầu, một chiếc ghe họ cần có để đi qua trên
đường tiến tới cách mạng vô sản. Mục tiêu đó đã được khẳng định ngay
trong “Luận cương chính trị” Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần
Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn
vào tháng 4 cùng năm:”Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc
cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống
đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người
cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Trần
Trung Đạo là ngòi bút đấu tranh cho những giá trị đích thực dân chủ tự
do, nét bút uyên thâm sâu sắc, ôn hòa, không sắt máu:
"Sau
1975, một số người từng xếp bút nghiên vào rừng “Chống Mỹ cứu nước” đã
phẫn nộ, kết án giới lãnh đạo Đảng đi ngược lại quyền lợi dân tộc, phản
bội lý tưởng, phản bội máu xương của đồng chí họ, đưa đất nước đi vào
con đường nghèo đói, độc tài, đảng trị. Nghĩ cho đúng, đó là những lời
kết án thiếu cơ sở lý luận lẫn thực tế. Thật là oan cho Đảng. Nếu họ
chịu khó đọc các đề cương chính trị đại hội Đảng từ ngày thành lập 78
năm trước cho đến đại hội lần thứ X cách đây hai năm, sẽ thấy Đảng Cộng
sản chưa bao giờ phản bội mục tiêu của mình. Mục tiêu cộng sản hóa toàn
cõi Việt Nam và đặt dân tộc Việt Nam dưới quyền cai trị tuyệt đối của
Đảng chưa bao giờ thay đổi. Vì một số điều kiện cách mạng và biến chuyển
chính trị thế giới xảy ra ngoài tiên liệu, các chính sách của Đảng cũng
phải theo đó mà áp dụng một cách thích nghi hơn, mềm dẻo hơn qua những
chính sách gọi là “đổi mới”, “hội nhập” v.v…, nhưng mục đích của Đảng từ
trước đến sau luôn nhất quán..."
Trong
tình bạn với Trần Trung Đạo, tôi mến anh như người bạn hòa nhã, dung
dị, cởi mở, nhất là bản tính cùng tư tưởng yêu nước, tôi hàm ý nước Việt
Nam Cộng Hòa, và chúng tôi chia chung cùng một tôn giáo. Ngày được tin
Linh mục Trần Cao Tường đã từ trần vào Chúa Nhật 21.11.2010. Cha André
Dũng Lạc Trần Cao Tường (Ngài là nhà văn quán xuyến website văn học Dũng
Lạc) cả hai chúng tôi viết bài về Cha André Tường khi Ngài ra đi bất
chợt. Trần Trung Đạo viết bài tiễn đưa: "Linh mục Trần Cao Tường, từ đồi
Massada đến bờ sông Hát", bài viết cảm động. Xin trích đoạn:
"Một
ngày nọ của gần mười năm trước, tôi nhận một email của một vị linh mục
nhận xét về thơ văn của tôi mà ngài đọc được trên internet. Email của
linh mục nhắc đến một bài thơ và một tâm bút của tôi. Bài thơ viết về
ngôi chùa Viên Giác, nơi tôi sống trong những ngày còn nhỏ ở Hội An và
bài tâm bút viết về một nhà thờ Công Giáo ở quê tôi, nhà thờ Trà Kiệu.
Phía dưới của email có một nội dung rất đậm đà tình cảm là một tên rất
đẹp kèm theo số điện thoại: Trần Cao Tường.
Tôi gọi lại ngay nhưng không có tiếng trả lời nên chỉ biết để lại lời cám ơn các nhận xét của Cha. Buổi chiều, Cha gọi lại.
Chúng tôi nói chuyện với nhau lần đầu nhưng tự nhiên dường như đã quen
thân nhau từ lâu lắm. Tôi “Thưa Cha” và xưng con theo đúng lễ nghi tôn
giáo như tôi vẫn thường “Bạch Thầy” và xưng con với các thầy bên Phật
Giáo. Cha Trần Cao Tường bảo “gọi nhau là anh em đi vì chúng ta cùng họ
Trần cả”. Tôi không chịu và đề nghị Cha đừng để ý đến chuyện “Cha con”
mà hãy xem đó như một phần của đạo đức Việt Nam. Cha không nói thêm gì
nữa. Cả tôi và Cha đều thuộc mẫu người nói rất thoải mái. Chúng tôi nói
chuyện suốt giờ về mọi vấn đề trong đời sống, từ chính trị đến tôn giáo,
từ thơ văn đến nhiếp ảnh và cũng nói khá lâu về internet. Ngoại trừ môn
internet tôi giỏi hơn Cha, bộ môn nào Cha cũng rất uyên bác và sở hữu
một hiểu biết bao la, vượt xa những kiến thức còn rất giới hạn của tôi.
Thời
gian ngắn sau đó Cha Trần Cao Tường gởi tặng tôi các tác phẩm đã in của
ngài. Ngoài các tác phẩm thần học, Cha viết nhiều tác phẩm có tựa đề
rất nhẹ nhàng nhưng chuyên chở những nội dung giáo dục và đạo đức rất
sâu sắc không chỉ dành riêng cho độc giả Công Giáo mà cho mọi người như
Suối Nguồn Tình Yêu, Đi Tìm Nét Văn Hóa Việt, Vũ Khúc Thăng Ca, Nhịp Múa
Sông Thanh, Khúc Sáo Ân Tình v.v.. Mỗi khi có dịp thưa chuyện với Cha
cũng là lúc tôi học được thêm nhiều điều mới lạ. Tôi giới thiệu Cha với
nhiều văn nghệ sĩ thân hữu ở California, Texas v.v.. và ai cũng quý mến
Cha."
Linh mục Trần Cao Tường mà tôi vẫn
nghe tiếng lòng của Ngài đã một thời chia sẻ rằng Ngài quý mến Trần
Trung Đạo và tôi, ngài biết cả hai chúng tôi đều là phật tử, nhưng ngài
không thấy sự cách biệt tôn giáo với hai chúng tôi. Tôi cảm mến và cám
ơn Ngài cho chúng tôi những cảm nghĩ tốt đẹp như vậy. Tôi xin gửi tư
tưởng của Cha Tường nhân dịp này đến Đạo vậy.
Nói
đến Trần Trung Đạo, không thể bỏ qua lãnh vực thi ca, tôi như nhiều
người vốn thích bài thơ bất hủ "Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười", thơ
được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ thành nhạc. Một bài ca nhạc về người mẹ tiêu
biểu ngợi ca bóng hình người mẹ bao la. Đạo viết về mẹ anh trong trân
quý, trong cảm động tràn dâng:
"Mẹ là biểu tượng trọn
vẹn và tuyết đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một người để chúng
ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng tư nhất, thì người đó phải
là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ
một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành
ý nghĩ đầu tiên của một ngày, thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh
lợi nhưng là để nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của
mẹ, lời dặn dò của mẹ hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ
có một ngày an lành và hạnh phúc."
Bạn bè của Đạo biết bà mẹ Hòa Hưng là mẹ nuôi, nhưng trong cái tâm đạo của người con, Đạo rất quý bà như mẹ ruột.
"Tôi
nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó
tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán
bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi
kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết
bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi
trong những ngày đói khổ.
Thơ gửi mẹ:
“Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi ..
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười...”
Tôi
kính yêu mẹ. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày
khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả
Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ
của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào
cuộc đời này."
Đạo là người con hiếu thảo, vẹn tròn
đạo đức. Đạo đức vốn dĩ là sức mạnh của tâm hồn. Anh kể về mẹ ruột của
mình, bóng người mẹ mà anh không thể hình dung ra được, bởi vì:
"Người
mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như
không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết
mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi
là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi
lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà
tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên."
Tôi có viết bài về Đạo, chia sẻ nỗi cảm thông với anh:
"Đại
thi hào Nga Aleksandr Sergeyevich Pushkin là người có những đóng góp to
lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và toàn châu
Âu. Ông mất khi mới 37 tuổi nhưng đã để lại nhiều kiệt tác như "Evgeny
Onegin", "Con gái viên đại úy", "Con đầm pích", "Boris Godunov",... Ông
được coi là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn và tả chân của nước Nga
và châu Âu thế kỷ 19. Pushkin làm thơ gửi mẹ nuôi mà ông thương, kính
trọng như nhũ mẫu của mình:
Mẹ thân thiết trong những ngày cơ cực
Nguồn mến thương nâng bước đời con!
Rừng thông thăm thẳm cô đơn
Ngóng con ngày tháng mỏi mòn mẹ trông
Trong phòng khách bên song cửa sổ
Như người canh, thương nhớ mênh mang
Tay già lần mũi kim đan,
Như đang đếm bước thời gian chậm buồn
Mẹ thẫn thờ nhìn đường thăm thẳm
Lối cổng vào bỏ vắng từ lâu
Buồn thương, linh cảm, lo âu
Lại càng chất nặng thắt đau ngực già...
(Gửi mẹ nuôi - Thúy Toàn dịch từ Nga ngữ)
Tôi
nghĩ từ Aleksandr Sergeyevich Pushkin đến Trần Trung Đạo đều có mẫu số
chung, dù dưỡng mẫu hay nhũ mẫu, hai nhà thơ đã dành những tâm tư trang
trọng nhất cho 2 mẫu người mẹ trong văn học, thực vậy từ Âu sang Á, sự
xúc cảm về mẹ cho văn chương mẹ mãi mãi thăng hoa."
Ngày
được tin bà mẹ Hòa Hưng của Trần Trung Ðạo đã ra đi khỏi cuộc đời này.
Nhiều bạn bè chia sẻ cùng Đạo trong dịp bà mẹ Hòa Hưng đã mệnh chung
trong thanh thản, nhẹ nhàng. Tên thật của bà là Phan Thị Diên, Pháp danh
Diệu Hồng, sinh năm 1924 và qua đời ngày 21 tháng 12 năm 2014 tại Hòa
Hưng, Sài Gòn, hưởng thượng thọ 91 tuổi.
Bài thơ bi ai cảm động khác Đạo sáng tác tôi thích là Người Lính Già Vừa Chết Đêm Qua.
Người lính già Việt Nam
Vừa mới chết đêm qua
Trên đường phố San Jose bụi bặm
Anh đã đi bao nhiêu nghìn dặm
Ðến nơi đây chỉ để chết âm thầm
Không một phát súng chào
Không cả một người thân
Không ai nói với anh một lời tiễn biệt...
Tôi gởi anh đôi dòng thơ
Từ trái tim của một thằng em nhỏ
Cũng lạc loài lưu lạc như anh
Chúng ta, hai chiếc lá chung cành
Bay phơ phất trước từng cơn bão tố
Ngủ đi anh bình yên nơi chín suối
Ðau thương nầy em sẽ viết thay anh..."
Trần Trung Ðạo còn có bài thơ về tình bạn, Những Người Bạn Tôi Chưa Hề Quen:
Cũng như anh, tôi ngàn đêm thao thức
Hãi hùng mơ chung một giấc chiêm bao
Có tiếng quân reo, ngựa hí, kêu gào
Tiếng xích khua vang, tiếng người rên siết
Cũng như anh, tôi đôi lần ra biển
Hướng về Nam mây trắng một màu tang
Có ai về xoay ngược bánh thời gian
Cho tôi nhặt những mảnh đời đã mất...
Trong thơ tôi mùa Xuân chim không hót
Thu không vàng, Hạ chẳng để yêu đương
Thơ của tôi là máu rỉ trăm đường
Là u uất đã chìm sâu trong đất
Cũng như anh, tôi mười năm đất khách
Có gì vui đời một kẻ lưu vong
Khi tôi chết nấm mồ hoang cỏ mọc
Đã làm gì để lại với non sông ?"
Trần
Trung Đạo suy tư trăn trở về quê hương, cách xa Sài Gòn khoảng mười hai
ngàn dặm, anh làm bài thơ Ở Một Nơi Không Có Mùa Xuân:
“Ở một nơi không có mùa xuân
Chim chóc cũng chẳng buồn về đậu
Ngày hai buổi em về qua xóm lạ
Buồn vương trên tóc nhớ theo chân
Nắng Sài Gòn từng giọt rưng rưng
Thời con gái tan theo từng giọt nắng
Anh ra đi phố phường xưa hoang vắng
Tháng năm buồn kỷ niệm ngủ không yên...
Vầng trăng ước trong lòng em vẫn sáng
Mười năm chờ nghe một tiếng thương yêu
Em nối tình mình theo mũi chỉ đường kim
Ðan chiếc áo cho ngày anh trở lại
Nhưng bóng hạc vẫn nghìn trùng bay mãi
Ðể giang hà mòn mỏi tiếng thông reo.
Ði đi anh đừng trở lại đây
Em sẽ khóc nhưng không hề nuối tiếc
Chỉ tội nghiệp cho anh một đời thua thiệt
Gian khổ tù đày để được thế thôi sao?"
Trần
Trung Đạo vượt biên bằng đường biển, bỏ phiếu cho chế độ Cộng Sản bằng
chân, văn thơ của anh ngậm ngùi cho quê hương Việt Nam, nhưng rất cứng
rắn với người Cộng Sản.
Tập sách 600 trang, Chính Luận
trình bày những ý tưởng gắn bó với dân tộc Việt Nam, vạch trần những sai
trái, những tội ác của ác đảng Cộng Sản Việt Nam, cũng như quân Tàu
Cộng Bắc phương, quan điểm anh trình bày bằng văn phong ôn hòa, có những
bài viết tâm bút hay những bài thơ mang nỗi xót xa của người dân Việt
bị cầm tù tại quê hương. Tôi tham dự buổi ca nhạc của nhạc sĩ Phạn Văn
Hưng tại Little Sài Gòn ngày 12/10/2008, Phạn Văn Hưng hát cho dân tộc
Việt Nam trong khát vọng tự do dân chủ, cho người dân hiền hòa bị chế độ
Cộng Sản ngược đãi, chà đạp nhân quyền. Buổi ca nhạc đó có bài ca bi ai
lắm, bài Em Bé Việt Nam Và Viên Sỏi, phổ thơ của Trần Trung
Đạo, kể chuyện bất hạnh của cháu bé trong chuyến vượt biên buồn thảm,
cha mẹ mất, cháu bơ vơ. Lời thơ ai oán của chuyến vượt biến vượt biển
trốn chạy chế độ Cộng Sản, trích dẫn:
Bên bờ biển Palawan
Có một em bé gái
Tuổi mới chừng lên sáu lên năm
Ðang ngồi đếm từng viên sỏi nhỏ
Và nói chuyện một mình
Như nói với xa xăm.
- Em đến từ Việt Nam
Câu trả lời thường xuyên và duy nhất
Hai tiếng rất đơn sơ mà nhiều người quên mất
Chỉ hai tiếng nầy thôi
Em nhớ kỹ trong lòng
Em chỉ ra ngoài Ðông Hải mênh mông
Cho tất cả những câu hỏi khác
Mẹ em đâu?
- Ngủ ngoài biển cả.
Em của em đâu?
- Sóng cuốn đi rồi.
Chị của em đâu?
- Nghe chị thét trên mui.
Ba em đâu?
Em lắc đầu không nói.
- Bé thức dậy thì chẳng còn ai nữa
Chiếc ghe nhỏ vớt vào đây mấy bữa
Trên ghe sót lại chỉ dăm người
Lạ lùng thay một em bé mồ côi
Ðã sống sót sau sáu tuần trên biển...
Đôi
dòng tiểu sử về Trần Trung Ðạo, quê quán ở làng Nghi Hạ, huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Anh theo học phổ thông tại các trường trung học
Duy Xuyên, trung học Trần Quý Cáp tại Hội An. Cựu sinh viên Kinh tế và
Luật tại Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Trần Trung Đạo vượt
biên bằng đường biển năm 1981, tạm trú tại trại Palawan rồi sang định cư
tại Hoa Kỳ. Anh theo học ngành điện toán tại các trường Wentworth
Institute of Technology và Boston University rồi làm kỹ sư điện toán cho
một công ty đầu tư tài chính tại Boston.
Trần Trung Đạo
làm thơ từ thời còn ở Việt Nam. Tại Hoa Kỳ ông bắt đầu tham gia các sinh
hoạt văn hóa, tuổi trẻ trong mạng lưới Internet từ cuối thập niên 80.
Đạo
có nhiều đóng góp vào nỗ lực xây dựng các phong trào trẻ tại hải ngoại
từ đầu thập niên 90 đến nay và thường xuyên tham gia thuyết trình về các
chủ đề tuổi trẻ tại các cộng đồng Việt Nam, các hội nghị nhân quyền,
tại các đại học, tổng hội sinh viên, trại hè sinh viên.
Tác phẩm anh xuất bản:
Giấc mơ Việt Nam (văn)
Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười (tập thơ)
Thao thức (tập thơ)
Thơ Trần Trung Đạo (tập thơ)
Tâm bút Trần Trung Đạo (văn)
Mao Trạch Đông, cuộc đời chính trị và tình dục (lược dịch)
Chính luận Trần Trung Đạo (văn, Nhà xuất bản Cổ Loa, 2014)
Trong tiểu luận của Trần Trung Đạo về Giấc Mơ Việt Nam, trích dẫn tiêu biểu:
"Câu
chuyện thành công của nước Mỹ, đúng như Roger Rosenblatt viết, đã bắt
đầu từ một giấc mơ chung: Giấc Mơ Người Mỹ hay American Dream như chúng
ta thường nghe gọi bằng tiếng Anh. American Dream được định nghĩa trong
tự điển Wordsmyth như là “một lý tưởng của người Mỹ, nhờ đó, con người
nhận được sự giàu có vật chất, bình đẳng, tự do, và các giá trị tương tự
(the American ideal that any man or woman may obtain material wealth,
equality, freedom, and the like)”.
American Dream đã giúp
nhân dân Mỹ chiến thắng đạo quân tinh nhuệ của Anh Hoàng George III
trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1775-1783), đã giúp nhân dân Mỹ
vượt qua những bất đồng kinh tế chính trị sâu sắc trong thời kỳ chiến
tranh nội chiến (1860-1865), đã giúp đưa nước Mỹ trở nên quốc gia có lợi
nhất sau cả hai cuộc chiến tranh thế giới.
American Dream
là giấc mơ mà những người cha sáng lập của quốc gia Hoa Kỳ từng ôm ấp
và theo đuổi: Tự Do, Dân Chủ và Cường Thịnh. Tổng Thống đầu tiên George
Washington đã từng dặn dò: “Tôi mong được thấy Hoa Kỳ mãi mãi là đất
nước của tự do và công lý”. Tượng đài kỷ niệm Tổng Thống George
Washington được kiến trúc dựa theo tinh thần độc lập, tự chủ và vươn lên
đó.
American Dream là giấc mơ bình đẳng mà Mục Sư Martin
Luther King đã đọc trên thềm đài kỷ niệm Lincoln ngày 28 tháng 8 năm
1963: “Tôi mơ một ngày, trên đồi Georgia, con cháu của những người nô lệ
cũ, và con cháu của những chủ nô cũ, ngồi lại với chung một bàn trong
tình huynh đệ...Tôi mơ một ngày, bốn người con của tôi sẽ được sống
trong một đất nước, nơi đó, chúng sẽ không bị phán xét do màu da mà
chính bằng tư cách riêng của chúng”.
American Dream, qua
nhiều thời đại, từ những người trên chiếc tàu Mayflower cho đến hôm nay,
đã được làm phong phú thêm để trở thành một bản sắc văn hóa, một truyền
thống đặc biệt của quốc gia này.
Trở về với lịch sử Việt Nam, tổ tiên chúng ta, ông bà chúng ta đã bao giờ mơ và theo đuổi Giấc Mơ Việt Nam chưa?...
Giấc
Mơ Việt Nam là giấc mơ của những bàn tay khối óc xây dựng nên nền văn
hóa Đông Sơn, bắt đầu từ hàng ngàn năm trước, trải dài đến thời điểm cực
thịnh vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Những chiếc trống đồng Đông
Sơn, Ngọc Lữ được chạm trổ tinh vi đánh dấu một thời đại vàng son trong
tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Những cổ vật quý giá đó, không
phải chỉ là những biểu tượng cho văn minh dân tộc chúng ta mà còn đại
diện cho cả nền văn minh vùng Nam Á đương thời. Chính tinh thần văn hóa
Hòa Bình, Đông Sơn đã hun đúc thành sức mạnh dân tộc, để các thế kỷ sau
đó, đủ sức đối kháng với sự xâm lăng thô bạo của các nguồn văn hóa mang ý
đồ đồng hóa phát xuất từ phương Bắc.
Thật vậy, mặc dù hơn
một ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường với bao
nhiêu cực hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn
ngà voi, trầm hương, châu báu, dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc
lập, vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất. Đất
nước chúng ta đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được nhưng chúng ta
hãnh diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc. Hiếm có
trên một đất nước nào, ở đó, tên của một con sông, một ngọn núi, một
thôn làng, cũng có thể làm cho người dân khi nhắc đến phải rơi nước mắt.
Những Phong Hóa, Nam Quan, Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Thiên Trường,
Diên Hồng, Chi Lăng, Lam Sơn, Đống Đa, v.v... không phải chỉ đơn giản là
những địa danh lịch sử, mà hơn thế nữa, còn là là nơi giữ gìn anh linh
hùng khí của dân tộc chúng ta. Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc
rìu, những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung
Châu, Bắc Việt, ở Sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ
vật mà còn là chứng tích của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến
đấu, bao nhiêu máu xương và nước mắt của tổ tiên Lạc Việt đã đổ xuống
trước áp lực của các triều đại Bắc phương xâm lấn khác.
Giấc
Mơ Việt Nam là giấc mơ của hai người phụ nữ Việt đất Mê Linh uy danh
lừng lẫy, đã can đảm thắp lên ngọn lửa tự do cho dân tộc. Một ngàn năm
trăm năm trước Jeanne d'Arc, người phụ nữ Pháp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
chống ách cai trị của người Anh, tại vùng Đông Á đã có hai người phụ nữ
Lạc Việt, Trưng Trắc và Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa chống nhà Hán và
lập nên một triều đại huy hoàng. Dù chỉ trị vì được 3 năm, tinh thần
“giặc đến nhà đàn bà phải đánh” của hai bà đã trở thành truyền thống yêu
nước tồn tại đến ngày nay.
Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ
của các bô lão được Vua Trần Thánh Tông triệu đến Điện Diên Hồng để hỏi ý
trước cuộc xâm lăng của đại quân Mông Cổ vào tháng Chạp năm 1284. Lần
đầu tiên trong lịch sử, sức mạnh dân tộc Việt thể hiện không chỉ bằng
lòng yêu nước nhưng còn bằng tinh thần dân chủ. Chính sức mạnh tổng hợp
vô địch của lòng yêu nước và tinh thần dân chủ đã đẩy lui bao nhiêu vạn
hùng binh Mông Cổ trong ba cuộc chiến chống quân Nguyên lừng lẫy. Thượng
Hoàng Trần Thánh Tông đã cảm khái sau cuộc kháng Nguyên lần thứ hai:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông muôn thưở vững âu vàng
Giấc
Mơ Việt Nam là giấc mơ của Bình Định Vương Lê Lợi sau ba lần tổn thất
phải lui về tử thủ Chí Linh. Quân kháng chiến đã phải đào củ chuối, giết
ngựa chiến mà ăn. Suốt mười năm nằm gai nếm mật đầy hy sinh gian khổ,
khi hòa khi chiến, lúc cương lúc nhu, tổ tiên chúng ta trong thời đại
nhà Lê cuối cùng đã giữ được Giấc Mơ Việt Nam còn sống. Nguyễn Trãi đã
kết luận trong Bình Ngô Đại Cáo: “Xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ
đây đổi mới, càn khôn bĩ rồi lại thái, nhật nguyệt hối rồi lại minh,
ngàn năm vết nhục nhã sạch làu, muôn thuở nền thái bình vững chắc, âu
cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”. Sử gia Phạm
Văn Sơn trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã nhận xét về Giấc Mơ Việt Nam:
“Và cũng có thể nói rằng những cuộc hưng vong thê thảm này đã hun đúc
cho dân tộc chúng ta một tinh thần tranh đấu bền bỉ, để tồn tại đến ngày
nay, oanh liệt dưới vòm trời Đông Nam Á”...."
Bài viết
này xin kết thúc bằng “Giấc Mơ Việt Nam” của Trần Trung Đạo đã đưa ra
hình ảnh tiêu biểu của được giấc mơ Việt Nam: Nếu nước Hoa Kỳ được thành
lập từ những giấc mơ của người dân các nơi đến đây đóng góp và xây
dựng, và những giấc mơ đó đã được thực hiện hoàn mỹ tạo đất nước này
thành công để là một quốc gia vĩ đại, thật sự hùng mạnh và phú cường.
Nếu
giấc mơ của Tổng thống đầu tiên Hoa Kỳ George Washington mơ rằng: ”Tôi
mong được thấy Hoa Kỳ mãi mãi là đất nước của tự do và công lý”, để rồi
nước này thành công vĩ đại vì bởi những giá trị của sự tự do, công bình,
dân chủ và nhân quyền.
Nếu giấc mơ về công bình xã hội
của Mục sư Martin Luther King rằng: “Tôi mơ một ngày, trên đồi Georgia,
con cháu của những người nô lệ cũ, ngồi lại chung một bàn trong tình
huynh đệ... Tôi mơ một ngày, bốn người con của tôi sẽ được sống trong
một đất nước, nơi đó, chúng sẽ không bị phán xét do màu da mà chính bằng
tư cách riêng tư của chúng”, xứ Mỹ này đã có những đạo luật công bình
hơn để chận đứng các sự kỳ thị trong xã hội.
Xin
Đấng tạo hóa trên cao phù trợ cho giấc mơ Việt Nam của Trần Trung Đạo
được như giấc mơ Hoa Kỳ để Việt Nam ta sớm có được tự do, dân chủ và
nhân quyền, để Việt Nam ta sớm có được hùng mạnh và phú cường, và để
Việt Nam ta sớm có được sự bình đẳng, không bị kỳ thị "hồng hơn chuyên",
bị kỳ thị chênh lệch xã hội do quyền thế lãnh đạo, do tham quyền nhũng
lạm.
Sau cùng, lời riêng xin chúc mừng Trần Trung Đạo mang tác phẩm "Chính Luận" về Nam Cali được đón nhận nồng nhiệt.
Trần Việt Hải
Los Angeles, 15/01/2015
Subscribe to:
Posts (Atom)